Hiện nay nước ta có khoảng 76 đô thị loại 30.000 dân trở lên và khoảng 400 thị trấn nhỏ. Tổng số dân đô thị là khoảng 25 triệu người, chiếm trên 29% tổng số dân cả nước. Dự kiến đến năm 2010, dân số đô thị sẽ chiếm tới 35-48% trong đó khoảng 50-60% thuộc 3 thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sở dĩ có hiện tượng dân số đô thị tăng nhanh như vậy là do tình trạng thiếu đất canh tác nông nghiệp, thiếu việc làm, thừa lao động và thu nhập thấp ở nông thôn đã tạo ra một luồng di cư từ nông thôn lên thành thị. Dân số đô thị tăng nhanh sẽ tạo ra sức ép về nhà ở, nước sinh hoạt, năng lượng, dịch vụ y tế và song song với nó là lượng chất thải (nước, rác thải) tăng, giảm diện tích cây xanh, diện tích mặt nước, tăng mật độ giao thông và lượng khí thải, bụi chì do đó cũng tăng theo. Bên cạnh đó, tốc độ công nghiệp hoá ở nước ta cũng tăng rất nhanh (có nơi đạt tới 35-40%/năm). Ngoài những mặt lợi thì tình hình công nghiệp hoá nhanh cũng mang lại những tác động đáng kể đến môi trường: nguồn chất thải độc hại càng lớn, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác triệt để, môi trường và tài nguyên càng bị suy thoái thì xác suất xảy ra các sự cố môi trường càng cao. Các khu công nghiệp và nhà máy ở nước ta nhìn chung đều lạc hậu, chưa có thiết bị xử lý chất thải, đổ trực tiếp nước thải ra sông hồ và các khu vực dân cư xung quanh, gây ô nhiễm môi trường, tác động xấu đến sức khoẻ của người lao động cũng như của cộng đồng dân cư.
1. Hệ thống cấp nước.
Theo kết quả thống kê cho biết, khoảng 70% hệ thống cấp nước đô thị lấy từ nguồn nước mặt, 30% lấy từ nguồn nước ngầm. Hệ thống phân phối nước lại cũ kỹ, hư hỏng, rò rỉ làm thất thoát tới 30-40% lượng nước cung cấp . Như vậy lượng nước máy cung cấp đến người dân đô thị còn thấp (ở các thành phố loại I, tỉ lệ dân số được cung cấp nước máy chiếm 49,2%, ở thành phố loại II tỉ lệ này là 47,1%) . Còn lại phần lớn dân cư tự khoan giếng lấy nước sinh hoạt. Hiện nay, số lượng giếng khoan trên địa bàn các thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là không thể kiểm soát nổi. Chính tình trạng khoan giếng một cách bừa bãi như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn nước mặt và nước ngầm gây ô nhiễm nguồn cung cấp nước chính cho các nhà máy nước đô thị.
Để đánh giá mức độ ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội, người ta đã tiến hành phân tích hơn 660 mẫu nước lấy từ 106 giếng khoan cho kết quả là nhiều nơi thuộc khu vực nội thành Hà nội bị nhiễm bẩn NH4 ở mức độ mạnh và rất mạnh (khu vực Tương Mai, Lương Yên, Bách khoa, Ngô Sỹ Liên, đặc biệt là các khu Hạ Đình, Pháp Vân), một số khu vực còn bị nhiễm độc thạch tín.
Hệ thống cấp nước
2. Hệ thống thoát nước thải và vệ sinh môi trường.
Tại các khu đô thị, tình trạng sử dụng nhà vệ sinh không hợp tiêu chuẩn vẫn tồn tại (ở Hà Nội là các khu phố cổ, ở thành phố Hồ Chí Minh là các vùng kênh rạch ). Theo báo cáo chiến lược vệ sinh và thoát nước đô thị Quốc gia cho thấy, ở Hà Nội, số hộ gia đình không có nhà vệ sinh chiếm tới 43%, thành phố Hồ Chí Minh là 18%. Mặt khác, hệ thống cống thoát nước thải cũng không đúng tiêu chuẩn, không có bất kỳ một hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nước thải được đổ trực tiếp vào hệ thống thoát nước chung và đổ ra các ao hồ sông ngòi trong thành phố (ở Hà nội, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu là hai con sông được coi là bẩn nhất với hàm lượng các chất ô nhiễm đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép).
3. Hệ thống thoát nước mưa và tình trạng lụt.
Hệ thống thoát nước mưa ở hầu hết các khu đô thị đều rất kém. Ở Hà nội chỉ cần một trận mưa khoảng 50mm/h sẽ làm cho khoảng 42 điểm trong nội thành bị ngập nước, đặc biệt là khu vực đường Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thái Học… Nguyên nhân chính của tình trạng úng lụt là do các đường ống thoát nước có đường kính nhỏ, không kịp thoát nước, thêm vào đó là các sông ngòi, ao hồ thoát nước đều bị bồi lấp, tồn tại nhiều lòng chảo trong phạm vi thành phố và do mặt bằng đô thị Hà Nội lại thấp hơn so với mực nước sông Hồng.
Hệ thống thoát nước
4. Hệ thống xử lý chất thải rắn và tình trạng ô nhiễm đất.
Kể từ năm 1997, Nhà nước đã có nhiều văn bản về quản lý chất thải rắn ở các khu đô thị và khu công nghiệp nhưng vấn đề này vẫn tồn tại nhiều bức xúc. Trong năm 2000, tổng lượng rác thải đô thị ước tính khoảng 18 nghìn m3/ngày (82% là rác thải sinh hoạt) nhưng mới chỉ thu gom được khoảng 45-55%.
Hiện nay ở các thành phố lớn chưa có biện pháp xử lý rác thải đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có xưởng xử lý rác thải hữu cơ nhưng công suất thấp (chỉ bằng 1% lượng rác thải trong thành phố).
Rác thải bệnh viện đang là một vấn đề gây rất nhiều sự chú ý của người dân. Các bệnh viện hầu hết chưa có lò đốt rác hợp vệ sinh. Không những thế khu vực đặt lò đốt rác lại sát ngay khu dân cư, khi đốt dân cư xung quanh sẽ hít phải những mùi rất khó chịu và rất độc hại. Đó là chưa kể đến tình trạng rác thải bệnh viện không được phân loại mà đổ chung với rác thải thông thường không qua xử lý. Đây là nguy cơ lây lan các căn bệnh truyền nhiễm.
Gần đây, ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nhiều bệnh viện đã có lò đốt rác thải hợp tiêu chuẩn vệ sinh y tế nhưng vẫn chưa xử lý hết được lượng chất thải bệnh viện. Ngoài ra ở một số bệnh viện nhỏ do kinh phí còn hạn hẹp nên không có lò đốt rác hoặc nếu có thì cũng không thể đưa vào hoạt động.
Phương pháp xử lý rác phổ biến hiện nay ở các đô thị là chôn ủ tại các bãi rác tập trung. Nhưng hiện nay chưa có bãi rác nào được coi là đảm bảo được vệ sinh môi trường, từ đó gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí khu vực lân cận.
Hệ thống xử lý chất thải
Tất cả những thực trạng trên đã và đang đe dọa môi trường sống của mọi người xung quanh, mọi người nên có ý thức tự giác bảo vê môi trường, cùng nhau tuyên truyền vì một môi trường sống trong lành, lành mạnh.
Công ty vệ sinh môi trường đô thị HÒA PHONG luôn đi đầu trong các lĩnh vực xử lý va dọn dẹp vệ sinh môi trường. Chúng tôi luôn đồng hành và là những người bạn thân thiết của mọi nhà. Sang năm mới công ty chúng tôi chúc quý khách hàng nhiều niềm vui, sức khỏe, thành công trong cuộc sống !